Sạt lở đất là gì? Các công bố khoa học về Sạt lở đất
Sạt lở đất là hiện tượng mất mát hoặc di chuyển của lớp đất từ vị trí ban đầu do tác động của các yếu tố tự nhiên hoặc con người. Hiện tượng sạt lở đất thường x...
Sạt lở đất là hiện tượng mất mát hoặc di chuyển của lớp đất từ vị trí ban đầu do tác động của các yếu tố tự nhiên hoặc con người. Hiện tượng sạt lở đất thường xảy ra khi đất bị gió thổi, mưa, lũ, động đất, đánh trống, các hoạt động xây dựng, khai thác mỏ, đốt rừng, hay sự ảnh hưởng của quá trình thay đổi môi trường. Sạt lở đất có thể xảy ra ở cả đồng bằng, vùng núi và bờ biển, gây ra các hệ lụy tiêu cực như thiệt hại về người, vật chất, mất môi trường sống và gây nguy hiểm cho con người.
Sạt lở đất là quá trình mất mát hoặc di chuyển của đất từ vị trí ban đầu của nó. Hiện tượng này thường xảy ra khi sự cố xảy ra, gây ra tác động mạnh lên đất, thay đổi tính chất của nó và khiến cho cấu trúc của nó không thể duy trì được. Điều này có thể diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau, bao gồm:
1. Sạt lở bề mặt: Đây là loại sạt lở phổ biến nhất. Nó xảy ra khi một lớp mỏng của đất bị tháo rời khỏi lớp dưới nó. Lớp đất thường tháo rời do sự va chạm của nước, gió, hoặc sự tác động của con người, như xới cày, đào đất, đánh trống, hoặc xây dựng đường.
2. Sạt lở hàng loạt: Loại sạt lở này xảy ra khi một diện tích lớn của đất di chuyển theo hướng dọc hoặc ngang. Sạt lở hàng loạt thường xảy ra sau các trận động đất, lũ lụt mạnh hoặc sau khi có sự địa chất thuyên chuyển lớn trong khu vực đất liền.
3. Sạt lở chảy: Đây là loại sạt lở diễn ra khi đất hỗn hợp với nước chảy đi qua một khu vực chỉnh hướng thấp hơn. Sạt lở chảy thường xảy ra khi có lượng mưa lớn hoặc khi các nguồn nước ngầm dễ bị xâm nhập vào lớp đất.
4. Sạt lở biên: Loại sạt lở này xảy ra khi đất di chuyển từ một vị trí cao đến vị trí thấp hơn hoặc từ một vị trí dốc đến vị trí phẳng. Sạt lở biên thường gây ra bởi quá trình tiến hóa tự nhiên như nước mưa dẫn đến sự phân giải của đất rừng hoặc do hoạt động con người như khai thác mỏ, đốt rừng, hay xây dựng trái phép.
Sạt lở đất gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực, bao gồm sự mất mát về người và tài sản, phá hủy môi trường sống, mất mát năng suất đất và mất mát đất rừng quan trọng. Đồng thời, sạt lở cũng gây nguy hiểm cho con người và có thể gây ra tổn thương, thương vong và mất mát kinh tế.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sạt lở đất":
Sạt lở đất do mưa liên quan đến các quá trình vật lý hoạt động trên các thang thời gian khác nhau. Mối quan hệ giữa các thang thời gian này hướng dẫn việc phát triển một mô hình toán học sử dụng dạng rút gọn của phương trình Richards để đánh giá ảnh hưởng của sự thấm nước mưa đến sự xảy ra, thời gian, độ sâu và gia tốc của sạt lở đất trong các tình huống đa dạng. Thang thời gian liên quan dài nhất là
Các hệ thống thông tin địa lý (GIS) và bản đồ học số có thể hỗ trợ đáng kể trong việc phát triển và sử dụng các mô hình thống kê để đánh giá nguy cơ sạt lở đất ở khu vực.
Từ một lưu vực thoát nước nhỏ nằm ở miền Trung Italia, các yếu tố địa chất và địa hình quan trọng đã được thu thập và xử lý bằng cách áp dụng công nghệ GIS. Cụ thể, các mô-đun đã được sử dụng để tạo ra các mô hình địa hình số có độ chính xác cao và tự động phân chia địa hình thành các đơn vị dốc chính. Thông tin kết quả sau đó đã được phân tích bằng phương pháp phân biệt, cho phép đánh giá nguy cơ và rủi ro sạt lở đất trong mỗi đơn vị dốc. Mặc dù phương pháp này không thiếu những thiếu sót, nhưng cho thấy là một cách tiếp cận khả thi và hiệu quả về chi phí trong việc đánh giá và lập bản đồ độ nhạy sạt lở đất.
Quản lý tài nguyên nước (WRM) nhằm phát triển bền vững gặp nhiều thách thức ở các khu vực có mạng lưới giám sát thực địa thưa thớt. Sự tăng trưởng theo cấp số nhân của thông tin dựa trên vệ tinh trong thập kỷ qua đã cung cấp cơ hội chưa từng thấy để hỗ trợ và cải thiện WRM. Hơn nữa, những rào cản truyền thống đối với việc tiếp cận và sử dụng dữ liệu vệ tinh đang dần giảm bớt khi những đổi mới công nghệ cung cấp cơ hội quản lý và phân phối nguồn thông tin phong phú này đến với nhiều đối tượng hơn. Chúng tôi xem xét nhu cầu dữ liệu cho WRM và vai trò mà cảm biến từ xa vệ tinh có thể đóng góp để lấp đầy khoảng trống và nâng cao WRM, tập trung vào khu vực Mỹ Latinh và Caribe làm ví dụ cho một khu vực có tiềm năng phát triển tài nguyên của mình hơn nữa và giảm thiểu tác động của các mối nguy thủy văn. Chúng tôi đánh giá công nghệ hiện tại cho các biến số liên quan, các nhiệm vụ vệ tinh hiện tại và sản phẩm, cách chúng đang được các cơ quan quốc gia trong khu vực Mỹ Latinh và Caribe sử dụng hiện nay, cũng như các thách thức trong việc cải thiện tính hữu dụng của chúng. Chúng tôi thảo luận về tiềm năng của các nhiệm vụ mới được ra mắt, sắp được triển khai và dự kiến có thể cải thiện và biến đổi việc đánh giá và giám sát tài nguyên nước. Những thách thức liên tục về độ chính xác, mẫu và tính liên tục vẫn cần được giải quyết, và những thách thức thêm về khối lượng dữ liệu khổng lồ mới cần vượt qua để tận dụng tốt nhất tiện ích của thông tin dựa trên vệ tinh trong việc cải thiện WRM.
Đất ngập nước là một trong những hệ sinh thái quan trọng nhất, cung cấp môi trường sống lý tưởng cho một loạt lớn các loài thực vật và động vật. Lập bản đồ và mô hình hóa đất ngập nước sử dụng dữ liệu Quan Sát Trái Đất (EO) là điều thiết yếu cho quản lý tài nguyên thiên nhiên ở cả cấp độ khu vực và quốc gia. Tuy nhiên, việc lập bản đồ đất ngập nước chính xác là một thách thức, đặc biệt là trên quy mô lớn, do cảnh quan đa dạng và bị phân mảnh, cũng như sự tương đồng phổ giữa các lớp đất ngập nước khác nhau. Hiện tại, thiếu các kiểm kê đất ngập nước chính xác, nhất quán và toàn diện ở quy mô quốc gia hoặc tỉnh trên toàn cầu, với hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc tạo bản đồ quy mô địa phương từ dữ liệu viễn thám có giới hạn. Tận dụng sức mạnh tính toán của Google Earth Engine (GEE) và sự sẵn có của dữ liệu viễn thám có độ phân giải không gian cao được thu thập bởi Copernicus Sentinels, nghiên cứu này giới thiệu bản đồ kiểm kê đất ngập nước chi tiết đầu tiên ở cấp độ tỉnh của một trong các tỉnh giàu đất ngập nước nhất ở Canada về mặt mở rộng đất ngập nước. Cụ thể, dữ liệu tổng hợp từ nhiều năm radar khẩu độ tổng hợp (SAR) Sentinel-1 mùa hè và quang học Sentinel-2 được sử dụng để xác định sự phân bố không gian của năm lớp đất ngập nước và ba lớp không phải đất ngập nước trên Đảo Newfoundland, bao phủ diện tích xấp xỉ 106,000 km2. Các kết quả phân loại được đánh giá bằng cách sử dụng cả phân loại kiểu dựa trên điểm ảnh và thể đối tượng, sử dụng phương pháp rừng ngẫu nhiên (RF) được triển khai trên nền tảng GEE. Kết quả cho thấy sự vượt trội của phương pháp dựa trên đối tượng so với phương pháp phân loại dựa trên điểm ảnh cho lập bản đồ đất ngập nước. Mặc dù việc phân loại sử dụng dữ liệu quang học nhiều năm chính xác hơn so với SAR, nhưng việc kết hợp cả hai loại dữ liệu đã cải thiện đáng kể độ chính xác phân loại của các lớp đất ngập nước. Đặc biệt, độ chính xác tổng thể đạt 88,37% và hệ số Kappa đạt 0,85 với tổ hợp SAR/quang học nhiều năm sử dụng phân loại RF dựa trên đối tượng, trong đó tất cả các lớp đất ngập nước và không phải đất ngập nước đều được xác định chính xác với độ chính xác lần lượt trên 70% và 90%. Kết quả cho thấy sự chuyển đổi từ các sản phẩm và phương pháp tĩnh tiêu chuẩn sang việc tạo ra các bản đồ phủ sóng đất ngập nước động, theo yêu cầu, quy mô lớn thông qua các tài nguyên điện toán đám mây tiên tiến, đơn giản hóa truy cập và xử lý 'Dữ liệu Toàn Địa'. Ngoài ra, bản đồ kiểm kê ngày càng đòi hỏi của Newfoundland rất có giá trị và có thể được sử dụng bởi nhiều bên liên quan, bao gồm các chính phủ liên bang và tỉnh, các thành phố, các tổ chức phi chính phủ và các chuyên gia môi trường, chỉ đề cập đến một số ít.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10