Sạt lở đất là gì? Các công bố khoa học về Sạt lở đất

Sạt lở đất là hiện tượng mất mát hoặc di chuyển của lớp đất từ vị trí ban đầu do tác động của các yếu tố tự nhiên hoặc con người. Hiện tượng sạt lở đất thường x...

Sạt lở đất là hiện tượng mất mát hoặc di chuyển của lớp đất từ vị trí ban đầu do tác động của các yếu tố tự nhiên hoặc con người. Hiện tượng sạt lở đất thường xảy ra khi đất bị gió thổi, mưa, lũ, động đất, đánh trống, các hoạt động xây dựng, khai thác mỏ, đốt rừng, hay sự ảnh hưởng của quá trình thay đổi môi trường. Sạt lở đất có thể xảy ra ở cả đồng bằng, vùng núi và bờ biển, gây ra các hệ lụy tiêu cực như thiệt hại về người, vật chất, mất môi trường sống và gây nguy hiểm cho con người.
Sạt lở đất là quá trình mất mát hoặc di chuyển của đất từ vị trí ban đầu của nó. Hiện tượng này thường xảy ra khi sự cố xảy ra, gây ra tác động mạnh lên đất, thay đổi tính chất của nó và khiến cho cấu trúc của nó không thể duy trì được. Điều này có thể diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau, bao gồm:

1. Sạt lở bề mặt: Đây là loại sạt lở phổ biến nhất. Nó xảy ra khi một lớp mỏng của đất bị tháo rời khỏi lớp dưới nó. Lớp đất thường tháo rời do sự va chạm của nước, gió, hoặc sự tác động của con người, như xới cày, đào đất, đánh trống, hoặc xây dựng đường.

2. Sạt lở hàng loạt: Loại sạt lở này xảy ra khi một diện tích lớn của đất di chuyển theo hướng dọc hoặc ngang. Sạt lở hàng loạt thường xảy ra sau các trận động đất, lũ lụt mạnh hoặc sau khi có sự địa chất thuyên chuyển lớn trong khu vực đất liền.

3. Sạt lở chảy: Đây là loại sạt lở diễn ra khi đất hỗn hợp với nước chảy đi qua một khu vực chỉnh hướng thấp hơn. Sạt lở chảy thường xảy ra khi có lượng mưa lớn hoặc khi các nguồn nước ngầm dễ bị xâm nhập vào lớp đất.

4. Sạt lở biên: Loại sạt lở này xảy ra khi đất di chuyển từ một vị trí cao đến vị trí thấp hơn hoặc từ một vị trí dốc đến vị trí phẳng. Sạt lở biên thường gây ra bởi quá trình tiến hóa tự nhiên như nước mưa dẫn đến sự phân giải của đất rừng hoặc do hoạt động con người như khai thác mỏ, đốt rừng, hay xây dựng trái phép.

Sạt lở đất gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực, bao gồm sự mất mát về người và tài sản, phá hủy môi trường sống, mất mát năng suất đất và mất mát đất rừng quan trọng. Đồng thời, sạt lở cũng gây nguy hiểm cho con người và có thể gây ra tổn thương, thương vong và mất mát kinh tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sạt lở đất":

Satellite Remote Sensing for Water Resources Management: Potential for Supporting Sustainable Development in Data‐Poor Regions
Water Resources Research - Tập 54 Số 12 - Trang 9724-9758 - 2018
Abstract

Water resources management (WRM) for sustainable development presents many challenges in areas with sparse in situ monitoring networks. The exponential growth of satellite based information over the past decade provides unprecedented opportunities to support and improve WRM. Furthermore, traditional barriers to the access and usage of satellite data are lowering as technological innovations provide opportunities to manage and deliver this wealth of information to a wider audience. We review data needs for WRM and the role that satellite remote sensing can play to fill gaps and enhance WRM, focusing on the Latin American and Caribbean as an example of a region with potential to further develop its resources and mitigate the impacts of hydrological hazards. We review the state‐of‐the‐art for relevant variables, current satellite missions, and products, how they are being used currently by national agencies across the Latin American and Caribbean region, and the challenges to improving their utility. We discuss the potential of recently launched, upcoming, and proposed missions that are likely to further enhance and transform assessment and monitoring of water resources. Ongoing challenges of accuracy, sampling, and continuity still need to be addressed, and further challenges related to the massive amounts of new data need to be overcome to best leverage the utility of satellite based information for improving WRM.

Cross-scalar satellite phenology from ground, Landsat, and MODIS data
Remote Sensing of Environment - Tập 109 Số 3 - Trang 261-273 - 2007
Comparing evapotranspiration estimates from satellites, hydrological models and field data
Journal of Hydrology - Tập 229 Số 1-2 - Trang 3-18 - 2000
The 30 year TAMSAT African Rainfall Climatology And Time series (TARCAT) data set
Journal of Geophysical Research D: Atmospheres - Tập 119 Số 18 - 2014
Bản đồ Kiểm Kê Đất Ngập Nước Đầu Tiên của Newfoundland với Độ Phân Giải Không Gian 10 m Sử Dụng Dữ Liệu Sentinel-1 và Sentinel-2 trên Nền tảng Điện Toán Đám Mây Google Earth Engine
Remote Sensing - Tập 11 Số 1 - Trang 43

Đất ngập nước là một trong những hệ sinh thái quan trọng nhất, cung cấp môi trường sống lý tưởng cho một loạt lớn các loài thực vật và động vật. Lập bản đồ và mô hình hóa đất ngập nước sử dụng dữ liệu Quan Sát Trái Đất (EO) là điều thiết yếu cho quản lý tài nguyên thiên nhiên ở cả cấp độ khu vực và quốc gia. Tuy nhiên, việc lập bản đồ đất ngập nước chính xác là một thách thức, đặc biệt là trên quy mô lớn, do cảnh quan đa dạng và bị phân mảnh, cũng như sự tương đồng phổ giữa các lớp đất ngập nước khác nhau. Hiện tại, thiếu các kiểm kê đất ngập nước chính xác, nhất quán và toàn diện ở quy mô quốc gia hoặc tỉnh trên toàn cầu, với hầu hết các nghiên cứu tập trung vào việc tạo bản đồ quy mô địa phương từ dữ liệu viễn thám có giới hạn. Tận dụng sức mạnh tính toán của Google Earth Engine (GEE) và sự sẵn có của dữ liệu viễn thám có độ phân giải không gian cao được thu thập bởi Copernicus Sentinels, nghiên cứu này giới thiệu bản đồ kiểm kê đất ngập nước chi tiết đầu tiên ở cấp độ tỉnh của một trong các tỉnh giàu đất ngập nước nhất ở Canada về mặt mở rộng đất ngập nước. Cụ thể, dữ liệu tổng hợp từ nhiều năm radar khẩu độ tổng hợp (SAR) Sentinel-1 mùa hè và quang học Sentinel-2 được sử dụng để xác định sự phân bố không gian của năm lớp đất ngập nước và ba lớp không phải đất ngập nước trên Đảo Newfoundland, bao phủ diện tích xấp xỉ 106,000 km2. Các kết quả phân loại được đánh giá bằng cách sử dụng cả phân loại kiểu dựa trên điểm ảnh và thể đối tượng, sử dụng phương pháp rừng ngẫu nhiên (RF) được triển khai trên nền tảng GEE. Kết quả cho thấy sự vượt trội của phương pháp dựa trên đối tượng so với phương pháp phân loại dựa trên điểm ảnh cho lập bản đồ đất ngập nước. Mặc dù việc phân loại sử dụng dữ liệu quang học nhiều năm chính xác hơn so với SAR, nhưng việc kết hợp cả hai loại dữ liệu đã cải thiện đáng kể độ chính xác phân loại của các lớp đất ngập nước. Đặc biệt, độ chính xác tổng thể đạt 88,37% và hệ số Kappa đạt 0,85 với tổ hợp SAR/quang học nhiều năm sử dụng phân loại RF dựa trên đối tượng, trong đó tất cả các lớp đất ngập nước và không phải đất ngập nước đều được xác định chính xác với độ chính xác lần lượt trên 70% và 90%. Kết quả cho thấy sự chuyển đổi từ các sản phẩm và phương pháp tĩnh tiêu chuẩn sang việc tạo ra các bản đồ phủ sóng đất ngập nước động, theo yêu cầu, quy mô lớn thông qua các tài nguyên điện toán đám mây tiên tiến, đơn giản hóa truy cập và xử lý 'Dữ liệu Toàn Địa'. Ngoài ra, bản đồ kiểm kê ngày càng đòi hỏi của Newfoundland rất có giá trị và có thể được sử dụng bởi nhiều bên liên quan, bao gồm các chính phủ liên bang và tỉnh, các thành phố, các tổ chức phi chính phủ và các chuyên gia môi trường, chỉ đề cập đến một số ít.

#Bản đồ đất ngập nước #Newfoundland #Quan sát Trái Đất #Điện toán đám mây #Viễn thám #Radar khẩu độ tổng hợp #Sentinel-1 #Sentinel-2 #Phân loại rừng ngẫu nhiên #Độ phân giải không gian
Concentrations of chlorophyll, suspended matter, and gelbstoff in case II waters derived from satellite coastal zone color scanner data with inverse modeling methods
American Geophysical Union (AGU) - Tập 99 Số C4 - Trang 7457-7466 - 1994

Color ratio techniques used to derive chlorophyll concentrations from radiance data of the coastal zone color scanner (CZCS) fail in areas with high concentrations of suspended matter and gelbstoff (optically defined as case II water). In order to take into account all water constituents which modify the backscattered radiation field as well as the aerosol path radiance, an inverse modeling technique based on a two‐flow radiative transfer approximation and a simplex optimization procedure has been developed. It uses simultaneously the radiances of the first four CZCS spectral channels and minimizes the χ2 difference between the modeled and CZCS‐derived “Rayleigh‐corrected radiances.” The two‐flow model is calibrated with a set of radiance data which was simulated with a matrix‐operator radiative transfer model. In a first test, the inverse modeling procedure has been used to produce maps of the quantitative distributions of phytoplankton chlorophyll, suspended matter (dry weight), and gelbstoff; aerosol path radiance; and signal depth of the North Sea. By including the aerosol path radiance as a variable, the procedure implies the atmospheric correction. A map of the residual χ2 values indicates the success of the retrieval for each of the pixels.

Tổng số: 654   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10